Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 07-10-2025 11:10pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

KS CNSH. Lê Thị Thanh Tuyền
Bệnh viện Đại học Y Dược Buôn Ma Thuột


Tỷ lệ vô sinh ngày càng gia tăng do xu hướng kết hôn muộn và trì hoãn sinh con. Suy giảm dự trữ buồng trứng, đặc biệt ở những phụ nữ lớn tuổi hoặc có đáp ứng với kích thích buồng trứng kém dẫn đến số lượng và chất lượng noãn thấp. Hệ quả là tỷ lệ thụ thai giảm, ngay cả khi áp dụng các kĩ thuật hỗ trợ sinh sản (ART - Assisted Reproductive Technology). Việc gia tăng số lượng phôi nang chất lượng tốt là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của ART, đặc biệt trong các chiến lược như “trữ lạnh toàn bộ” (Freeze-all), chuyển phôi trữ lạnh (FET - Frozen Embryo Transfer) hay kỹ thuật sàng lọc di truyền tiền làm tổ (PGT-A - Preimplantation Genetic Testing for Aneuploidies). Nhiều biện pháp can thiệp nhằm cải thiện chất lượng noãn và phôi đã được áp dụng nhưng chưa chứng minh được hiệu quả rõ ràng.
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP - Platelet-Rich Plasma) là chế phẩm được tách từ máu của bệnh nhân với nồng độ tiểu cầu cao gấp 4–5 lần so với máu ngoại vi, chứa nhiều yếu tố tăng trưởng có khả năng thúc đẩy quá trình tái tạo mô. Nhờ những đặc tính này, PRP đã được ứng dụng rộng rãi trong y học. Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, một số nghiên cứu cho thấy PRP có thể cải thiện độ dày nội mạc tử cung, chất lượng noãn và phôi, cũng như tỷ lệ mang thai. Tuy nhiên, tác động của PRP lên sự hình thành phôi nang vẫn chưa được làm rõ. Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của tiêm huyết tương giàu tiểu cầu vào buồng trứng trong việc cải thiện đáp ứng buồng trứng và chất lượng phôi ở các bệnh nhân IVF có chất lượng phôi kém trong các chu kỳ kích thích buồng trứng có kiểm soát (COH - Controlled Ovarian Hyperstimulation) trước đó.
Nghiên cứu tiến cứu thực hiện tại Đài loan từ 7/2020 – 1/2024 trên 74 bệnh nhân từng thực hiện ≥ 2 chu kỳ kích thích buồng trứng (COH), kết hợp PGT-A. Nhóm chứng gồm 30 bệnh nhân, nhóm PRP gồm 44 bệnh nhân tiêm PRP trực tiếp vào buồng trứng. Ở nhóm PRP, PRP được chuẩn bị từ 60ml máu tự thân, tiêm vào vỏ buồng trứng trong giai đoạn nang noãn. Tất cả bệnh nhân đều được kích thích buồng trứng theo phác đồ PPOS (Progestin-Primed Ovarian Stimulation), phôi được nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang, đánh giá chất lượng theo thang điểm Gardner và thực hiện PGT-A khi phôi đạt chất lượng tốt. Các chỉ số đánh giá chính gồm số lượng và tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt, chỉ số phụ gồm tỷ lệ trưởng thành noãn, tỷ lệ thụ tinh, kết quả làm tổ và mang thai.
Kết quả:
Trong chu kỳ kích thích buồng trứng đầu tiên, không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm. Tuy nhiên ở chu kỳ thứ hai, nhóm PRP cho thấy sự cải thiện rõ rệt: số lượng noãn thụ tinh tăng (5,2 ± 3,6 so với 3,3 ± 3,5, p = 0,011), tổng số phôi nang (1,7 ± 1,5 so với 0,5 ± 0,7, p < 0,0001) và số phôi nang chất lượng tốt (0,6 ± 0,8 so với 0 ± 0,2, p < 0,0001). Tỷ lệ phôi nang tổng thể (35 ± 31% so với 13 ± 24%, p = 0,001) và tỷ lệ phôi nang chất lượng tốt (14 ± 22% so với 1 ± 3%, p < 0,0001) cũng cao hơn ở nhóm PRP. Lợi ích rõ rệt nhất được ghi nhận khi COH được thực hiện sau tiêm PRP từ một đến hai tháng. Đồng thời, kết quả PGT-A cho thấy:

  • Nhóm chứng: Chỉ có 2 bệnh nhân có phôi nang để PGT-A sau COH thứ 2, trong đó 1 phôi nguyên bội mang thai nhưng bị sảy sớm, không có ca sinh sống.

  • Nhóm PRP: sau COH lần 1, có 22 bệnh nhân có phôi để PGT-A, tổng 34 phôi, tỷ lệ phôi nguyên bội 17,6% (6/34), phôi khảm 20,6% (7/34). Sau COH lần 2: 14 bệnh nhân có phôi để PGT-A, tổng 21 phôi, tỷ lệ phôi nguyên bội 9,5% (2/21), phôi khảm 20,6%. 9 bệnh nhân được chuyển phôi, trung bình 1,6 ± 0,7 phôi/người. Kết quả, 7 bệnh nhân có thai, tỷ lệ thai lâm sàng đạt 29%.

Kết luận:
Việc tiêm PRP trực tiếp vào buồng trứng cho thấy tiềm năng trong việc cải thiện đáp ứng buồng trứng và chất lượng phôi ở những bệnh nhân có kết quả IVF không đạt mong đợi trước đó. Các bệnh nhân thực hiện kích thích buồng trứng sau khi tiêm PRP một đến hai tháng cho thấy sự cải thiện rõ rệt cả về số lượng và chất lượng phôi nang cũng như các tỷ lệ liên quan.
Tuy nhiên, nghiên cứu còn một số hạn chế như cỡ mẫu nhỏ, thiếu dữ liệu theo dõi dài hạn về buồng trứng, thai và trẻ sơ sinh; quy trình chuẩn bị, liều lượng và vị trí tiêm PRP khác nhau giữa các nghiên cứu dẫn đến khó khăn khi so sánh kết quả. Do đó, cần thêm các nghiên cứu tập trung vào nhóm bệnh nhân cụ thể, làm rõ cơ chế, xác định thời điểm, tần suất tiêm tối ưu, đánh giá tính an toàn và hiệu quả lâu dài bao gồm cả ảnh hưởng đến sức khoẻ mẹ và trẻ sơ sinh.
Tài liệu tham khảo: Yu, T. N., Chen, M. J., Lee, T. H., Chen, Y. C., Cheng, E. H., Huang, C. C., ... & Lin, P. Y. (2025). Intraovarian platelet-rich plasma injection significantly improves blastocyst yield and quality in IVF patients. Scientific Reports, 15(1), 1301.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK